🪼 Bệnh Xuất Huyết Não Ở Trẻ Sơ Sinh

Nguyên nhân xuất huyết ở trẻ sơ sinh. Xuất huyết ở trẻ sơ sinh thường do nguyên nhân thiếu hụt vitamin K. Thiếu vitamin K làm giảm khả năng đông máu. Trong khi đó, trẻ sơ sinh chưa có khả năng tổng hợp, lưu trữ vitamin K trong cơ thể. Sữa mẹ cũng không cung cấp đầy đủ 6OoCNay. Nhiễm khuẩn sơ sinh là tình trạng bị các tác nhân vi sinh vật xâm lần, thường là do vi khuẩn xảy ra trong giai đoạn sơ sinh. Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh rất đa dạng và không đặc hiệu bao gồm giảm vận động, ăn bú kém, ngừng thở, tim chậm, thay đổi thân nhiệt, suy hô hấp, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, rung cơ, co giật và vàng da. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và kết quả nuôi cấy. Việc điều trị ban đầu với ampicillin kết hợp với gentamicin hoặc cefotaxime, thu hẹp phổ kháng sinh ngay khi có kết quả vi khuẩn sơ sinh xảy ra trong khoảng từ 0,5 đến 8,0/1000 ca sinh. Tỷ lệ cao nhất xảy ra trong Trẻ sinh nhẹ cân LBWThiểu sốNam giới Khởi phát nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh có thể Sớm ≤ 3 ngày sau sinhMuộn sau 3 ngày Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm thường do hậu quả nhiễm trùng từ trong tử cung. Hầu hết trẻ sơ sinh có các triệu chứng trong vòng 6 giờ sau sinh. Các trường hợp khác có xu hướng do trực khuẩn đường ruột gram âm gây ra ví dụ, các chủng Klebsiella Nhiễm trùng do Klebsiella, Enterobacter, và Serratia Vi khuẩn gram âm Klebsiella, Enterobacter và Serratia có liên quan mật thiết với hệ vi khuẩn đường ruột bình thường mà hiếm khi gây bệnh ở những người bình thường. Chẩn... đọc thêm và một số sinh vật gram dương Listeria monocytogenes Listeriosis Listeriosis là bệnh nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm não, viêm da, hội chứng tuyến mắt, nhiễm trùng tử cung và trẻ sơ sinh, hoặc hiếm khi gây viêm nội tâm mạc do loài Listeria. Các... đọc thêm , enterococci Nhiễm cầu khuẩn đường ruột Cầu khuẩn đường ruột là vi khuẩn gram dương, kị khí tuỳ tiện. Enterococcus faecalis và E. faecium gây ra một loạt các bệnh nhiễm trùng, bao gồm viêm nội tâm mạc, viêm đường tiết... đọc thêm [ví dụ, Enterococcus faecalis, E. faecium], liên cầu khuẩn nhóm D Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm [ví dụ, Streptococcus bovis], liên cầu tan huyết alpha Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm và tụ cầu Nhiễm trùng tụ cầu tụ cầu khuẩn là các vi khuẩn Gram dương, hiếu khí. Staphylococcus aureus là tác nhân gây bệnh nhiều nhất; nó thường gây ra nhiễm trùng da và đôi khi viêm phổi, viêm nội tâm mạc, và viêm... đọc thêm . Ngoài ra, S. pneumoniae Nhiễm Phế Cầu Khuẩn Streptococcus pneumoniae phế cầu là vi khuẩn gram dương, tan máu alpha, hiếu khí, xếp đôi. Ở Mỹ, nhiễm trùng phế cầu là nguyên nhân chính gây viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết... đọc thêm , H. influenzae nhóm b Nhiễm khuẩn Haemophilus Loài vi khuẩn gram âm Haemophilus gây nhiều nhiễm trùng nhẹ và nghiêm trọng, bao gồm vãng khuẩn huyết, viêm màng não, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa, viêm tế bào và viêm thanh quản... đọc thêm , và, ít phổ biến hơn, Neisseria meningitidis Bệnh Meningococcal Meningococci Neisseria meningitidis là những song cầu khuẩn gram âm gây viêm màng não mủ và nhiễm trùng huyết. Các triệu chứng, thường là nặng, bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn, sợ ánh... đọc thêm gần như không gặp. Bệnh lậu không triệu chứng đôi khi xảy ra trong thai kỳ, do đó N. gonorrhoeae Bệnh lậu Bệnh lậu do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây ra. Nó thường nhiễm vào biểu mô của niệu đạo, cổ tử cung, trực tràng, hầu họng, hoặc kết mạc, gây kích ứng hoặc đau và xuất huyết rải rác... đọc thêm có thể hiếm khi là một mầm bệnh. Mặc dù xét nghiệm sàng lọc và dự phòng kháng sinh trong đẻ đối với nhóm liên cầu nhóm B đã làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm trùng sớm do GBS, tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm trùng muộn do GBS vẫn không thay đổi, điều này phù hợp với giả thuyết nhiễm khuẩn sơ sinh muộn thường do môi trường. Một số bệnh nhiễm trùng do virus ví dụ, herpes simplex lan tỏa Nhiễm Herpes Simplex HSV ở trẻ sơ sinh Nhiễm virus herpes simplex sơ sinh thường lây truyền trong cuộc đẻ. Dấu hiệu điển hình với tổn thương mụn phỏng vỡ mủ có thể khu trú hoặc tan tỏa các cơ quan. Chẩn đoán dựa vào nuôi cấy vi rút... đọc thêm , enterovirus Tổng quan về nhiễm Enterovirus Nhóm Enterovirus, cùng với nhóm rhinovirus xem Cảm lạnh thông thường và parechovirus ở người, là một chi của picornavirus pico, hoặc vi rút RNA nhỏ. Tất cả các enterovirus đều có... đọc thêm , adenovirus Nhiễm adenovirus Nhiễm một trong số nhiều loại adenovirus có thể không có triệu chứng hoặc gây ra các hội chứng cụ thể, bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp nhẹ, viêm kết giác mạc, viêm dạ dày và ruột, viêm bàng... đọc thêm , vi rút hợp bào hô hấp Virus hợp bào hô hấp RSV và nhiễm Human Metapneumovirus Virus hợp bào hô hấp và nhiễm human metapneumovirus gây nhiễm trùng đường hô hấp dưới theo mùa, đặc biệt ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Bệnh có thể không có triệu chứng, nhẹ hoặc nặng, bao gồm viêm... đọc thêm có thể biểu hiện như nhiễm trùng huyết khởi phát sớm hoặc khởi phát muộn. Một số yếu tố chu sinh và sinh sản của bà mẹ làm tăng nguy cơ, đặc biệt là nhiễm trùng sơ sinh sớm, như sau Mang GBS Liên cầu nhóm B Lây lan qua đường máu và qua nhau thai xảy ra khi lây truyền một số tác nhân gây bệnh do vi rút ví dụ rubella Bệnh Rubella bẩm sinh Bệnh Rubella bẩm sinh là một bệnh nhiễm virut từ người mẹ trong thời kỳ mang thai. Dấu hiệu bao gồm các dị tật bẩm sinh, có thể gây tử vong cho thai. Chẩn đoán là do huyết thanh học và cấy virus... đọc thêm , cytomegalovirus Nhiễm Cytomegalovirus CMV Bẩm sinh và Chu sinh Nhiễm Cytomegalovirus có thể xảy ra trước khi sinh hoặc chu sinh. Đây là một trong những bệnh nhiễm virus bẩm sinh thường gặp nhất. Các dấu hiệu khi sinh, nếu có, là chậm tăng trưởng trong tử... đọc thêm , động vật nguyên sinh ví dụ, Toxoplasma gondii Toxoplasmosis Bệnh Toxoplasma do nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii. Triệu chứng từ không biểu hiện đến hạch to lành tính bệnh giả tăng bạch cầu đơn nhân tới đe dọa đến mạng sống bệnh lý thần... đọc thêm và treponemal ví dụ Treponema pallidum Bệnh giang mai bẩm sinh Bệnh giang mai bẩm sinh là một nhiễm trùng đa cơ quan gây ra bởi Treponema pallidum và truyền cho thai qua nhau thai. Dấu hiệu sớm là các tổn thương da điển hình, hạch to, gan lách to... đọc thêm Một số vi khuẩn gây bệnh ví dụ, L. monocytogenes Listeriosis Listeriosis là bệnh nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm não, viêm da, hội chứng tuyến mắt, nhiễm trùng tử cung và trẻ sơ sinh, hoặc hiếm khi gây viêm nội tâm mạc do loài Listeria. Các... đọc thêm , Mycobacterium tuberculosis Bệnh lao TB Bệnh lao TB là bệnh nhiễm trùng do mycobacterial tiến triển mạn tính, thường có thời gian tiềm tàng sau khi có nhiễm bệnh ban đầu. Lao thường ảnh hưởng nhiều nhất đến phổi. Triệu chứng bao... đọc thêm một số trường hợp có thể lây nhiễm qua bánh rau, nhưng phần lớn là do nhiễm trùng ngược dòng từ cổ tử cung lên và do khi trẻ đi qua đường sinh dục có mang vi khuẩn của mẹ trong cuộc dù mật độ vi khuẩn mang ở bà mẹ có liên quan trực tiếp đến nguy cơ bệnh xâm lấn ở trẻ sơ sinh, nhưng nhiều bà mẹ có mật độ mang vi khuẩn thấp lại sinh ra trẻ sơ sinh có mật độ mang vi khuẩ cao, vì vậy chúng có nguy cơ cao nhiễm bệnh. Nước ối có phân su hoặc nhiều chất gây có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Streptococcus nhóm B và E. coli. Hơn nữa, một vài sinh vật trong khoang âm đạo của mẹ có thể tăng nhanh sau vỡ ỗi sớm PROM, có thể góp phần lây truyền ngược dòng. Các sinh vật nhiễm vào máu thông qua thai nhi hít hoặc nuốt nước ối bị ô nhiễm, dẫn đến nhiễm khuẩn trùng ngược dòng thể giúp giải thích nhiễm trùng cao ở trẻ sơ sinh có vỡ ối sớm, viêm phần phụ viêm ối có liên quan đến nhiễm trùng huyết sơ sinh hơn là viêm ở trung tâm bánh rau, trẻ sinh đôi nằm gần đường sinh dục của mẹ ở có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, nhiễm vi khuẩn của nhiễm trùng sơ sinh sớm và phản ánh hệvi khuẩn của khoang âm đạo của người mẹ. Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất trong nhiễm trùng huyết sơ sinh khởi phát muộn làCác yếu tố nguy cơ khác bao gồm Sử dụng catheter nội mạch kéo dàiBệnh liên quan có thể,chỉ là một dấu hiệu cho việc sử dụng thủ tục xâm lấnSử dụng kháng sinh không phù hợp tăng vi khuẩn kháng thuốcNằm viện kéo dàiThiết bị bị ô nhiễm hoặc dung dịch tiêm truyền hoặc cho vi khuẩn Gram dương ví dụ, coagulase-negative staphylococci và Staphylococcus aureus có thể từ môi trường hoặc da của bệnh nhân. Các vi khuẩn Gram âm thường xuất phát từ hệ vi khuẩn nội sinh của bệnh nhân, có thể đã bị thay đổi do sử dụng kháng sinh trước đó hoặc do các vi khuẩn kháng thuốc chuyển từ bàn tay của nhân viên chăm sóc phương tiện lây lan chính hoặc thiết bị bị ô nhiễm. Do đó, các nguy cơ làm tăng khả năng nhiễm với các vi khuẩn này ví dụ, đông người, nhân viên y tá không đầy đủ, không rửa tay, rửa tay không đúng dẫn đến tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện cao hơn. Các yếu tố nguy cơ nhiễm chủng Candida bao gồm sử dụng catheter đường tĩnh mạch trung tâm kéo dài > 10 ngày, dung dịch dưỡng tĩnh mạch, sử dụng kháng sinh phổ rộng đặc biệt là cephalosporin thế hệ thứ 3 và bệnh lý đường trùng ban đầu có thể xảy ra ở đường tiểu, viêm xoang, tai giữa, viêm phổi hoặc đường tiêu hoá, và sau đó có thể lan truyền màng não, thận, xương, khớp, phúc mạc và da. Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh Dấu hiệu ban đầu của nhiễm khuẩn huyết sơ sinh thường không đặc hiệu, kín đáo và không phân biệt giữa các tác nhân kể cả virut. Những dấu hiệu sớm phổ biến nhất bao gồm Giảm hoạt động tự phát Bú ít Chán ănNgưng thở Nhịp tim chậmSự mất ổn định nhiệt độ hạ thân nhiệt hoặc tăng thân nhiệtSốt xuất hiện chỉ trong 10% đến 15% số trẻ sinh nhưng, khi duy trì ví dụ > 1 giờ, thường là dấu hiệu chỉ điểm nhiễm trùng. Các triệu chứng và dấu hiệu khác bao gồm suy hô hấp, các triệu chứng thần kinh ví dụ, cơn co giật, rung giật, vàng da đặc biệt xuất hiện trong vòng 24 giờ đầu đời mà không có bất đồng Rh hoặc ABO với tăng nồng độ bilirubin trực tiếp, nôn, tiêu chảy, và chướng bụng. Dấu hiệu cụ thể của cơ quan bị bệnh có thể xác định vị trí ban đầu hoặc ổ di bệnh. Hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm trùng sớm do Streptococcus nhóm B hoặc L. monocytogenes có tình trạng hô hấp đôi khi khó phân biệt được với hội chứng suy hô hấp cấp RDS.Viêm tấy đỏ, chảy dịch, chảy máu quanh rốn mà không có các bệnh lý liên quan chảy máu khác có thể là dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng rốn nhiễm trùng gây hủy hoại của mạch rốn.Hôn mê, co giật, uốn ván, hoặc thóp phồng lên gợi ý viêm màng não, viêm não, hoặc áp xe vận động tự phát của một chi cùng với sưng, nóng, đỏ, hoặc đau trên khớp cho thấy cốt tủy viêm hay viêm khớp nhiễm chướng có thể là dấu hiệu của viêm phúc mạc hoặc viêm ruột hoại tử đặc biệt khi đi kèm với phân máu hay bạch cầu nhiều trong.Các vết loét ngoài da, loét miệng và gan lách to đặc biệt với đông máu nội quản rải rác [DIC] có thể cho thấy nguy cơ nhiễm herpes simplex toàn trùng sớm do liên cầu B GBS có thể có biểu hiện như một tình trạng viêm phổi cấp tính. Thông thường, các biến chứng sản khoa đặc biệt là trẻ non tháng, ối với kéo dài, hoặc viêm ối màng ối. Trong > 50% trẻ sơ sinh, nhiễm trùng Streptococcus nhóm B có biểu hiện trong vòng 6 giờ sinh; 45% có điểm số Apgar 3 ngày đến 12 tuần, viêm màng não thường xuất hiện. Nhiễm khuẩn với GBS muộn thường không liên quan đến các yếu tố nguy cơ chu sinh hoặc chứng tỏ mẹ có mang vi khuẩn mà đó là do tình trạng bội sau khi đẻ. Chỉ số nghi ngờ caoNuôi cấy máu, dịch não tủy CSF và đôi khi là nước tiểuChẩn đoán sớm bệnh nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là rất quan trọng và đòi hỏi cảnh giác với các yếu tố nguy cơ đặc biệt ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp và tiếp tục cần theo dõi nếu có bất thường trong vài tuần đầu đời. Tổng số bạch cầu và số lượng tuyệt đối của các dòng bạch cầu ở trẻ sơ sinh là yếu tố dự báo kém của nhiễm trùng huyết sớm khởi phát. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng chưa trưởng thành tổng số bạch cầu đa hạt nhân > 0,16 là có giá trị chẩn đoán, và các giá trị dưới ngưỡng này có một giá trị tiên đoán âm tính cao. Tuy nhiên, tính đặc hiệu là thấp; đến 50% trẻ sơ sinh đủ tháng có tăng tỷ lệ. Các giá trị thu được sau 6 giờ tuổi có nhiều khả năng là bất thường và có giá trị lâm sàng so với những kết quả thu được ngay sau khi sinh. Số lượng tiểu cầu có thể giảm vài giờ đến ngày khởi trước khi khởi phát nhiễm trùng trên lâm sàng nhưng thường vẫn tăng sau khi trẻ hồi phục một ngày. Sự giảm này đôi khi đi kèm với những thay đổi khác của DIC ví dụ như tăng sản phẩm giáng hóa fibrin, giảm fibrinogen, kéo dài tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế [INR]. Với những thay đổi này, số lượng tiểu cầu thường không hữu ích trong việc đánh giá một trẻ sơ sinh nhiễm khuẩn có một lượng lớn vi khuẩn lưu thông trong máu nên đôi khi có thể được nhìn thấy vi khuẩn trong các bạch cầu hạt đa nhân bằng cách sử dụng chất nhuộm Gram, màu xanh methylene, hoặc chất tẩy crôm acridine với hệ kể kết quả của công thức máu hoặc dịch não tủy, tất cả trẻ sơ sinh có nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết bệnh nhân không ổn định, sốt hoặc hạ thân nhiệt, kháng sinh nên được chỉ định ngay sau khi nuôi cấy ví dụ như máu và hay dịch não tủy nếu có thể. Các mạch rốn có thể bị nhiễm khuẩn từ các vi khuẩn ở trên gốc rốn, đặc biệt là sau một vài giờ, do đó việc nuôi cấy máu từ catheter tĩnh mạch rốn có thể không đáng tin cậy. Do đó, cần lấy máu để nuôi cấy bằng mạch ngoại biên, tốt hơn là ở 2 vị trí. Mặc dù, việc chuẩn bị da tối ưu để thực hiện trước khi nuôi cấy máu ở trẻ sơ sinh không được xác định, bác sĩ lâm sàng có thể dùng dung dịch chứa iốt và phải để cho vùng da khô hoàn toàn sau sát khuẩn. Ngoài ra, máu được lấy ngay sau khi đặt catheter động mạch rốn cũng có thể được sử dụng cho nuôi cấy nếu cần. Máu nên được nuôi cấy cho cả vi khuẩn hiếu khí và kị khí. Tuy nhiên, lượng máu tối thiểu cho mỗi chai nuôi cấy máu là 1,0 mL; nếu 90%mẫu nuôi cấy máu vi khuẩn dương tính sẽ mọc trong vòng 48 giờ ủ mẫu Dữ liệu về nuôi cấy mao mạch không đủ để đề khuyến cáo dùng phương pháp Candida có thể mọc trên đĩa nuôi cấy máu và trên các đĩa thạch máu, nhưng nếu nghi ngờ có nấm khác thì nên sử dụng phương pháp nuôi cấy nấm. Đối với các loài nấm khác Candida, nuôi cấy máu nấm có thể cần từ 4 đến 5 ngày ủ bệnh trước khi trở nên dương tính và có thể âm tính ngay cả khi bệnh lan truyền rõ rệt. Bằng chứng về sự mang các tác nhân này trong miệng hoặc phân hoặc trên da có thể hữu ích trước khi có kết quả nuôi cấy. Trẻ sơ sinh bị nấm máu cần được thực hiện LP để xác định viêm màng não do nấm. Soi đáy mắt với đồng tử được giãn tốt để xác định có viêm thị giác do nấm Siêu âm thận cũng cần được làm để loại trừ nguy cơ nấm tại thận với hình ảnh u nấm fugal ball. Siêu âm thận cũng cần được làm để loại trừ nguy cơ nấm tại thận với hình ảnh u nấm fugal ball Xét nghiệm nước tiểu là cần thiết chỉ để đánh giá nhiễm khuẩn huyết muộn. Nên lấy nước tiểu qua đặt ống thông bàng quang hoặc chọc hút trên xương mu, không lấy mẫu qua túi nước tiểu. Mặc dù chỉ có kết quả cấy là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán, một số chỉ số như ≥ 5 bạch cầu/trường năng lượng cao hoặc thấy bất kỳ vi sinh vật nào trong một mẫu soi là bằng chứng của nhiễm trùng đường tiểu UTI. Không có bạch cầu trong nước tiểu không loại trừ nhiễm trùng đường tiểu. Nhiều xét nghiệm thường có bất thường trong nhiễm khuẩn huyết và đã được đánh giá là dấu hiệu sớm. Tuy nhiên, hầu hết độ nhạy của các xét nghiệm có xu hướng thấp cho đến khi nhiễm trùng rõ ràng sau đó trong bệnh tật, và độ đặc hiệu cũng không thật sự cao. Các chất chỉ điểm sinh học không được coi là hữu ích để xác định thời điểm bắt đầu dùng kháng sinh cho nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh vì giá trị tiên lượng dương tính kém, nhưng chúng có thể có vai trò bổ trợ trong việc xác định thời điểm có thể chấp nhận ngừng kháng sinh nếu kết quả nuôi cấy vẫn âm tính trong trường hợp nghi ngờ nhiễm trùng huyết khởi phát chất phản ứng giai đoạn cấp tính là các protein được sản xuất bởi gan dưới ảnh hưởng của IL-1 khi có hiện tượng viêm. Loại có được nghiên cứu nhiều nhất trong số này là protein phản ứng C định lượng CRP. Nồng độ ≥ 1 mg/dL 9,52 nmol/L đo bằng nephelometryh - kỹ thuật miễn dịch học thường được coi là bất thường. Nồng độ cao xảy ra trong vòng 6 đến 8 giờ phát triển nhiễm trùng huyết và đạt đỉnh sau 1 ngày. Độ nhạy của định lượng protein phản ứng C cao hơn nếu đo sau 6 đến 8 giờ sau sinh. Hai giá trị bình thường thu được ở 8 giờ đến 24 giờ sau khi sinh và sau 24 giờ sau có một giá trị tiên đoán âm tính cao đến 99,7%. 1. Pontrelli G, De Crescenzo F, Buzzetti R, et al Accuracy of serum procalcitonin for the diagnosis of sepsis in neonates and children with systemic inflammatory syndrome A meta-analysis. BMC Infect Dis 171302, 2017. doi Stocker M, van Herk W, El Helou S, et al C-reactive protein, procalcitonin, and white blood count to rule out neonatal early-onset sepsis within 36 hours A secondary analysis of the neonatal procalcitonin intervention study. Clin Infect Dis 732e383–e390, 2021. doi Tỉ lệ tử vong cao gấp 2 đến 4 lần ở trẻ nhẹ cân so với trẻ đủ tháng. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là từ 3% đến 40% tỷ lệ nhiễm khuẩn sơ sinh sớm do GBS là 2% đến 10% và nhiễm khuẩn sơ sinh muộn là 2% đến 20% nhiễm khuẩn sơ sinh muộn do GBS vào khoảng 2%. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn sơ sinh sớm phụ thuộc vào nguyên nhân gây nhiễm trùng; nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn gram âm hoặc chủng Candida có tỷ lệ tử vong lên đến 32 đến 36%. Ngoài ra, trẻ sơ sinh cân nặng cực thấp có nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm nấm máu thường có nguy cơ rất cao tổn thương về thần kinh. Liệu pháp kháng sinhLiệu pháp hỗ trợCác biện pháp hỗ trợ chung, bao gồm hỗ trợ hô hấp và kiểm soát huyết động, được kết hợp với điều trị kháng sinh. Trong nhiễm trùng huyết khởi phát muộn, trẻ sơ sinh trước đó được nhận vào cộng đồng bị nhiễm trùng huyết khởi phát muộn cũng nên được điều trị bằng ampicillin cộng với gentamicin hoặc ampicillin cộng với cefotaxime. Nếu nghi ngờ viêm màng não do vi khuẩn gram âm, có thể dùng ampicillin, cefotaxime và aminoglycoside. Trong nhiễm trùng sơ sinh muộn do nhiễm khuẩn bệnh viện, điều trị ban đầu nên bao gồm vancomycin có hoạt tính kháng S. aureus kháng methicilin; xem bảng Liều vancomycin cho trẻ sơ sinh cộng với một aminoglycosid. Nếu nghi ngờ nhiễm P. aeruginosa chỉ định ceftaidime, cefepime, hoặc piperacillin/tazobactam có thể được sử dụng bổ sung hoặc thay cho aminoglycoside tùy thuộc vào sự nhạy cảm của vi khuẩn theo từng đơn vị. Đối với trẻ sơ sinh đã điều trị trước đó với một đợt aminoglycoside từ 7 đến 14 ngày cần được điều trị, cần xem xét một loại aminoglycosid khác hoặc cephalosporin thế hệ nghi ngờ tụ cầu không đông huyết tương coagulase-negative staphylococci ở các bệnh nhân có yếu tố nguy cơ như vị trí đặc catherer bị sưng kéo dài > 72 giờ hoặc được phân lập từ máu hoặc chất dịch vô trùng bình thường khác và được coi là mầm bệnh, liệu pháp ban đầu cho nhiễm trùng huyết khởi phát muộn nên bao gồm vancomycin. Tuy nhiên, nếu vi khuẩn nhạy cảm với nafcillin, cefazolin hoặc nafcillin, có thể dùng thay thế cho vancomycin. Việc loại nguồn mang bệnh như vị trí catheter bị sưng nề là cần thiết để điều trị nhiễm trùng. Ngoài ra, coagulase-negative staphylococci có thể được bảo vệ bằng một màng sinh học lớp phủ bảo vệ ngăn cách vi khuẩn với catheter.Bởi vì Candida có thể mất từ 2 đến 3 ngày để phát triển trong nuôi cấy máu, việc bắt đầu điều trị amphotericin B deoxycholate theo kinh nghiệm và loại bỏ catheter nhiễm bệnh trước khi csoo kết quả cấy mới có thể cứu sống bệnh nhân. Truyền máu đã được sử dụng cho trẻ sơ sinh nặng đặc biệt là hạ huyết áp và toan chuyển hóa. Với hiệu quả làm tăng lượng globulin tuần hoàn, làm giảm lượng endotoxin tuần hoàn, tăng mức hemoglobin với mức 2,3-diphosphoglycerate cao hơn và cải thiện tưới máu. Tuy nhiên, chưa có thử nghiệm lâm sàng có đối chứng nào được tiến tươi đông lạnhcó thể giúp cải thiện sự thiếu hụt opsonin với độc tố ruột của Ecolo ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp, tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đối chứng nào được công bố và các nguy cơ liên quan đến truyền máu phải được xem yếu tố kích thích quần thể tái tổ hợp G-CSF-yếu tố kích thích hoạt hóa bạch cầu hạt [GM-CSF]- yếu tố hoạt hóa thực bào đã làm tăng số lượng và chức năng bạch cầu trung tính ở trẻ sơ sinh có giả định làm cải thiện tình trạng nhiễm trùng nhưng thức tế chưa có hiệu quả ở mọi trẻ sơ sinh có giảm bạch cầu nặng; cần phải được nghiên cứu thêm. Tiền sử viêm ối- màng ốiTuổi thai và thời gian vỡ ốiNếu không có viêm ối - màng ối hoặc không có chỉ định điều trị dự phòng với liên cầu B, chỉ định xét nghiệm hoặc điều trị là không cần mẹ có chỉ định điều trị dự phòng Streptococcus nhóm B và đã điều trị thích hợp với penicillin, ampicillin, hoặc cefazolin tiêm tĩnh mạch trong 4 giờ trước sinh, trẻ cần được theo dõi trong bệnh viện trong 48 giờ; các xét nghiệm và điều trị chỉ được thực hiện khi các triệu chứng phát triển. Với trẻ ≥ 37 tuần tuổi thai, có người chăm sóc và theo dõi phù hợp thì có thể xuất viện sau 24 bà mẹ không được điều trị dự phòng nhóm B liên cầu một cách thích hợp, trẻ được theo dõi trong bệnh viện trong 48 giờ mặc dù có thể chưa cần điều trị bằng kháng sinh. Nếu màng ối vỡ ≥ 18 giờ trước khi sinh hoặc tuổi thai < 37 tuần, trẻ nên được chỉ định nuôi cấy máu, công thức máu bạch cầu và CRP khi sinh và/hoặc từ 6 đến 12 giờ. Các triệu chứng lâm sàng và kết quả của phòng thí nghiệm giúp hướng dẫn điều trị. Việc cung cấp globulin miễn dịch để tăng cường phản ứng miễn dịch của trẻ sơ sinh đã không được chứng minh là giúp ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm khuẩn huyết. Tất cả phụ nữ mang thai nên được sàng lọc để tìm vi khuẩn GBS vào cuối thai kỳ bằng cách sử dụng cả nuôi cấy dịch âm đạo và trực tràng. Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS dương tính nên được điều trị dự phòng kháng sinh trong chuyển dạ trừ khi có chỉ định mổ đẻ trước khi chuyển dạ và trước khi vỡ ối. Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS âm tính nên được chỉ định dùng kháng sinh trong chuyển dạ nếu tiền sử họ đã sinh một đứa trẻ sơ sinh bị bệnh phụ nữ không rõ tình trạng nhiễm GBS ví dụ, vì không được kiểm tra hoặc kết quả không có nên dùng kháng sinh trong chuyển dạ nếu ≥ 1 trong số các yếu tố sau < 37 tuần tuổi thai Vỡ ối kéo dài ≥ 18 giờNhiệt độ ≥ 38°CCó thể xảy ra nếu có sàng lọc GBS dương tính trong lần mang thai trước đóKháng sinh thường được sử dụng bao gồm penicillin, ampicillin hoặc cefazolin và nên cho dùng tĩnh mạch trong thời gian ≥ 4 giờ trước khi sinh. Sự lựa chọn kháng sinh nên tính đến các mô hình kháng kháng sinh của GBS ở từng nơi. 1. Brady MT, Polin RA Prevention and management of infants with suspected or proven neonatal sepsis. Pediatrics 132166-8, 2013. doi Puopolo KM, Lynfield R, Cummings JJ, et al Management of infants at risk for group B streptococcal disease. Pediatrics 1442e20191881, 2019. doi Nhiễm trùng sơ sinh có thể nhiễm khuẩn khởi phát sớm ≤ 3 ngày sinh hoặc muộn sau 3 ngày.Nhiễm trùng khởi phát sớm thường là hậu quả của nhiễm trùng mẹ con và các triệu chứng xuất hiện trong vòng 6 giờ sau khi nhiễm trùng khởi phát muộn thường có do môi trường và có nguy cơ cao ở trẻ non tháng, đặc biệt là những trẻ nhập viện kéo dài, sử dụng đường truyền tĩnh mạch. Các triệu chứng sớm thường không đặc hiệu và khó nhận biết. Sốt chỉ có 10% đến 15% số trường hợp máu, cấy dịch não tủy, với nhiễm khuẩn sơ sinh muộn cần cấy thêm nước trị sớm nhiễm khuẩn huyết ban đầu bằng ampicillin kết hợp với gentamicin và/hoặc cefotaxime nếu nghi ngờ bị viêm màng não gram âm, thu hẹp lại thành các thuốc đặc hiệu với vi khuẩn khi có kết quả trị dự phòng liên cầu nhóm B GBS trong thời kỳ sinh đẻ cho những phụ nữ có nguy cơ truyền GBS cho trẻ sơ sinh của họ. I. ĐẠI CƯƠNG Xuất huyết não – màng não là chảy máu não, màng não do vỡ bất kì một mạch máu nào trong não. Nguyên nhân, hình thái, biểu hiện tuỳ theo lứa tuổi. Tỷ lệ tử vong cao và để lại di chứng nặng nề. II. NGUYÊN NHÂN Do thương tổn trong quá trình đẻ Chấn thương sản khoa do Thai quá to so với khung chậu người mẹ Ngôi thai bất lợi. Dây rau cuốn cổ gây khó đẻ. Ối vỡ sớm, ối vỡ non. Đẻ quá nhanh hoặc thời gian chuyển dạ kéo dài. Đẻ phải can thiệp Forcep, giác hút… Tuổi thai Thai non tháng do mạch máu còn yếu, dự trữ vitamin K ít. Thai già tháng cũng là một yếu tố gây chảy máu do thai quá lớn, do suy thoái bánh rau dẫn tới thiếu O2 cho thai. Do đặc điểm của hệ cầm máu Ở trẻ sơ sinh, hệ đông cầm máu chưa hoàn chỉnh. Cấu tạo thành mạch còn mỏng. Đám rối quanh não thất được tăng tưới máu và là tổ chức non yếu của não nên dễ bị xuất huyết. Giảm Prothombin sinh lí ngay ngày đầu và ngày thứ 3, thứ 5 sau đẻ do thiếu vitamin K. Tổn thương thiếu Oxi do rối loạn tuần hoàn, suy hô hấp sơ sinh. Thuốc Sử dụng các dung dịch ưu trương. Dung dịch Natri bicarbonat trong hồi sức sơ sinh quá liều lượng. Nguyên nhân khác Rối loạn đông máu. Bệnh máu giảm tiểu cầu vô căn. Dị dạng mạch não… III. CHẨN ĐOÁN Ở TRẺ SƠ SINH Lâm sàng Chảy máu dưới màng nhện Bệnh thường xảy ra trong những ngày đầu sau sinh do vỡ màng ối sớm, chuyển dạ kéo dài, ngôi thai bất lợi, đẻ non là những nguy cơ của chảy máu trong sọ. Tai biến có thể xảy ra tức thì, cũng có khi muộn, thường xảy ra càng sớm thì bệnh càng trầm trọng. Thể sớm xảy ra ngay sau đẻ; gồm hai thể Thể ngạt trắng Trẻ sơ sinh da trắng bệch, bất động, không khóc, không thở, tim đập yếu, thân nhiệt hạ, thóp lõm. Hồi sức sơ sinh có thể thở trở lại, tim đập yếu, da xanh tái nhưng rồi vẫn tử vong. Thể ngạt tím Trẻ đờ đẫn, bất động, không khóc, không thở, tim đập yếu, tím toàn thân. Hồi sức sơ sinh có kết quả, có thể tránh được tử vong. Thể muộn Thường xảy ra ngày thứ 2, thứ 5 sau đẻ. Trẻ thường có biểu hiện Cơn xanh tím, ngừng thở là triệu chứng hay gặp Sơ sinh tím tái toàn thân. Thở không đều, tim đập yếu. Hồi sức Oxi có thể hồng lại nhưng hay tái diễn rồi tử vong. Cơn co giật toàn thân và các dấu hiệu thần kinh khác thay đổi tuỳ theo BN Hôn mê, li bì. Rung giật toàn thân hoặc co cứng toàn thân. HC màng não - hoặc +. BN có thóp phồng hoặc không, khớp sọ giãn. Dấu hiệu TK khu trú, lác mắt, sụp mi, liệt nửa người. Xuất huyết não thất nhỏ có thể không có biểu hiện triệu chứng thần kinh. Rối loạn cơ lực Lúc đầu có thể tăng trương lực cơ, cổ ngửa ra sau, hoặc cơn dạng Tetani. Sau trương lực cơ giảm, trẻ mềm nhũn. Rối loạn thân nhiệt thân nhiệt tăng > 390 hay giảm Trẻ hôn mê, co giật, tử vong nhanh. Có khi phối hợp với chảy máu trong não, thân não, hành tuỷ. =>Trẻ hôn mê, tỉnh lại rồi lại hôn mê. Các dấu hiệu thần kinh khu trú co giật một bên, liệt nửa người, giãn đồng tử một bên thường có giá trị. Chảy máu dưới màng cứng Thường chảy máu dưới màng cứng mạn tính. Hay gặp ở trẻ đẻ đủ tháng, có cân nặng lớn, gặp ở trẻ 1 – 2 tháng tuổi. Triệu chứng Thiếu máu. Thóp căng phồng, tăng thể tích hộp sọ. Liệt TK khu trú. Điều trị cần dẫn lưu máu tụ dưới màng cứng. Cận lâm sàng Dịch não tuỷ Chọc dò dịch não tuỷ ra máu không đông, đôi khi dịch trong do xuất huyết trên lều tiểu não, xuất huyết ngoài màng cứng. Xét nghiệm dịch não tuỷ thấy Albumin tăng và nhiều hồng cầu. Siêu âm qua thóp Siêu âm qua thóp là XN có giá trị, xác định được vị trí và mức độ tổn thương Độ 1 chảy máu mạch mạc quanh não thất. Độ 2 chảy máu trong não thất. Độ 3 chảy máu trong não thất và gây giãn não thất. Độ 4 độ 3 và xuất huyết trong não. Ở trẻ sơ sinh non tháng, đặc biệt trẻ 38,5 độ à hạ sốt. Hạ nhiệt à ủ ấm. Chăm sóc Để trẻ nằm yên tĩnh, nâng cao đầu 20 – 30o nghiêng phải và sau luôn phải thay đổi tư thế để giảm áp lực nội sọ và giảm chệch bản lề khớp sọ. Trẻ hôn mê phải xoa bóp, thay đổi tư thế, tránh loét, ủng mục. Nuôi dưỡng qua sonde hoặc bằng đường TM. Theo dõi sát diễn biến bệnh để phát hiện các bất thường. Can thiệp ngoại khoa nếu cần Mổ lấy máu tụ nếu có máu tụ khu trú dưới màng cứng hoặc trong nhu mô. Bài viết được viết bởi BSCK I Bùi Thị Hà, Khoa Nhi - Sơ sinh, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long Trẻ sinh non thường gặp rất nhiều bệnh lý như vàng da, viêm phổi, suy hô hấp, nhiễm trùng sơ sinh, chậm phát triển tinh thần và vận động, bệnh võng mạc... do hệ miễn dịch yếu và các cơ quan chưa phát triển hoàn thiện. 1. Trẻ được gọi là sinh non khi nào? Trẻ được gọi là sinh non khi sinh ra dưới 37 tuần tuổi thai là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và di chứng ở sơ sinh. Trẻ sơ sinh ra đời dưới 28 tuần được gọi là sơ sinh cực non, trẻ sinh từ 28 – 34 tuần là trẻ sinh non tháng, trẻ sinh từ 34 – 37 tuần là trẻ sinh non muộn. Trẻ sơ sinh “có thể sống” được bắt đầu từ 22 tuần tuổi thai và cân nặng > 500gram. Trẻ sinh càng non thì nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, thể chất và để lại các di chứng càng cao. Trẻ dễ bị các bệnh nhưSuy hô hấp do phổi chưa trưởng thành, dễ mắc các bệnh viêm phổi, viêm phế quản;Xuất huyết não;Hạ thân nhiệt;Nhiễm trùng sơ sinh;Vàng da;Loạn sản phổi;Bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non;Di chứng chậm phát triển tinh thần, vận động. Trẻ sinh non dễ bị suy hô hấp Suy hô hấp Trẻ sinh non thường mắc bệnh lý suy hô hấp do hệ hô hấp của trẻ chưa phát triển hoàn chỉnh nên trẻ dễ bị suy hô hấp do thiếu chất surfactant, cơ hô hấp của trẻ yếu, trẻ dễ bị các cơn ngừng thở kéo dài >20 giây trong những ngày đầu sau sinh, trẻ khó thở, tím tái sau sinh thường gặp ở trẻ đẻ non dưới 34 tuần. Trẻ hay bị viêm phổi, viêm phế quản... Xuất huyết não sơ sinh Trẻ sinh non thường bị xuất huyết não sơ sinh, do thành mạch dễ vỡ, có thể vỡ bất kỳ các mạch máu nào ở màng não và não. Tỷ lệ gặp ở trẻ sơ sinh cao, đặc biệt là trẻ đẻ non, tỷ lệ tử vong cao. Nếu cấp cứu được thì trẻ thường để lại di chứng cao như bại não, chậm phát triển vận động tinh thần, hẹp hộp sọ, động hiện Trẻ kích thích, bỏ bú, khóc thét, hoặc rên è è, sốt hoặc hạ thân nhiệt, hoặc co giật, li bì, hôn mê. Có thể thấy trẻ tím tái, thóp phồng căng, khớp sọ giãn Xuất huyết não sơ sinh là bệnh lý nguy hiểm ở trẻ sinh non Hạ thân nhiệt Là bệnh lý hay gặp ở trẻ sơ sinh đặc biệt là ở trẻ đẻ non, do quá trình điều hòa bị mất cân bằng, diện tích da/ cân nặng lớn, lượng mỡ dưới da ít đặc biệt là lớp mỡ nâu ít, thiếu năng lượng để chuyển hóa và sinh hiện toàn thân lạnh, da ở tay chân xanh nhợt, khóc yếu ớt, bú kém, giảm hoạt động, thờ ơ. Hô hấp trẻ có khó thở, thở nhanh nông, thở không đều, nặng có thể suy hô hấp, ngừng thở, rối loạn nhịp tim. Nhiễm trùng sơ sinh Trẻ sơ sinh càng non thì hệ miễn dịch càng yếu trẻ càng dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn. Tỷ lệ nhiễm trùng ở nam và nữ là như nhau. Triệu chứng bệnh thường không điển hình, bệnh thường nặng và nguy cơ tử vong cao. Có thể gặp nhiễm trùng sơ sinh sớm xảy ra trong 3 ngày đầu sau sinh hoặc nhiễm trùng sơ sinh muộn thường xảy ra muộn sau 3 ngày sau sinh.Biểu hiệnNhiệt độ không ổn định có thể sốt hoặc hạ nhiệt thể có sụt hấp Xanh tím, rối loạn nhịp thở, thở rên, thở nhanh > 60 lần/phút + co kéo, ngừng thở > 15 mạch xanh tái, da nổi bông, nhịp tim nhanh > 160 lần/phút, lạnh đầu chi, thời gian hồng trở lại của da kéo dài > 3s, huyết áp hóa Bú kém, bỏ bú, chướng bụng, nôn ói, tiêu chảy, dịch dạ dày ứ > 2/3 số lượng sữa bơm của bữa trước. Gan, lách to. Trẻ bị nhiễm trùng sơ sinh thường có triệu chứng bỏ bú hoặc bú kém Da và niêm mạc Da tái, nổi vân tím, phát ban, xuất huyết, vàng da sớm trước 24 giờ, phù cứng bì, viêm da có mủ, viêm rốn. Có thể có tử ban, tụ máu dưới da, xuất huyết nhiều kinh Tăng hoặc giảm trương lực cơ, dễ bị kích thích, co giật, thóp phồng, giảm phản xạ, hôn mê. Vàng da Vàng da là thường xảy ra ở tất cả các trẻ sinh non, do Bilirubin tăng cao, sắc tố màu vàng được tạo ra trong quá trình thủy phân hồng cầu bình thường. Ở sơ sinh các tế bào hồng cầu luôn được tạo mới và phá hủy diễn ra nhiều hơn, khi hồng cầu bị vỡ giải phóng ra ra hemoglobin, chất này sẽ chuyển hóa tạo thành Bilirubin. Bilirubin sẽ được chuyển hóa tại gan và đào thải ra ngoài qua phân và nước tiểu. Ở trẻ đẻ non chức năng gan của trẻ còn kém nên khả năng Loạn sản phế quản phổi Do phổi của trẻ đẻ non chưa hoàn thiện phải thở máy áp lực cao và thời gian kéo dài, đặc biệt là ở trẻ đẻ non dưới 32 tuần. Khi trẻ bị loạn sản phế quản phổi có thể gây tăng áp lực động mạch phổi, xẹp phổi, xơ phổi, gây nhiễm trùng nặng, suy tim... nguy cơ tử vong hiện Thở nhanh, rút lõm lồng ngực, tím tái, phụ thuộc oxy. Chụp X-quang phổi tùy từng giai đoạn khác nhau mà có hình ảnh khác nhau. Có thể thấy tăng thể tích phổi, sợi, đám mờ, hoặc dạng nang, nhiều vùng ứ khí. Bệnh loạn sản phế quản phổi ở trẻ sinh non rất dễ gây tử vong Bệnh võng mạc ở trẻ đẻ non Là tình trạng bệnh lý tại mắt do sự phát triển bất thường của mạch máu của trẻ đẻ non, cân nặng thấp. Thường gặp ở trẻ đẻ non thở oxy kéo dài, thở oxy nồng độ cao. Bệnh có thể gây mù lòa nếu không được khám, điều trị kịp thời. Dựa vào khám thực, căn cứ vào các vị trí tổn thương, giai đoạn tiến triển và mức độ giãn của mạch máu võng mạc mà quyết định điều trị hay theo dõi cho trẻ. Hệ miễn dịch yếu Trẻ sơ sinh hệ miễn dịch thường yếu, đặc biệt là trẻ đẻ non mọi cơ quan đều chưa hoàn thiện, chính vì vậy trẻ rất dễ bị mắc nhiều bệnh như viêm đường hô hấp trên, viêm phổi, viêm phế quản... và khi bị bệnh thường khó hồi phục Trẻ sinh non có hệ miễn dịch yếu dễ bị viêm phổi Di chứng chậm phát triển tinh thần, vận động Trẻ sinh non các cơ quan tổ chức phát triển chưa hoàn thiện, trẻ dễ có nguy có bị xuất huyết não, nhiễm trùng nặng...Trẻ sinh non thường để lại các di chứng về vấn đề chậm phát triển khả năng học tập và nhận thức kém, các khiếm khuyết về nhận thức và hành vi thể nhẹ hơn, thiểu năng nặng, bại não, tổn thương thị lực và thính lực, gia mắc các phổ tự hiệnChậm vận động trẻ chậm biết lật, ngồi, bò, đứng, đi khi đến tuổi, chậm phát triển vận động thô ở mức độ biết nói, hoặc khó nói, chậm phát triển trí tuệ, bại thính lực, thị lực. Tỉ lệ này thường gia tăng ở những trường hợp xuất huyết trong não thất hay nhuyễn chất trắng cạnh não thất. 3. Điều trị Trẻ đẻ non tháng có tỷ lệ tử vong và mắc bệnh cao hơn rất nhiều so với trẻ đẻ đủ tháng. Điều trị trẻ đẻ non luôn là một thách thức đối với các bác sĩ nhi khoa và là vấn đề của toàn xã hội. Ở trẻ sinh non các cơ quan đều chưa hoàn thiện, nên trẻ đối diện với nhiều nguy cơ nên trẻ cần được chuẩn bị đầy đủ về thể chất để sẵn sàng thích nghi với môi trường sống bên ngoài. Tùy theo các nguyên nhân, triệu chứng biểu hiện bệnh lý khác nhau mà có kế hoạch điều trị cụ thể. Ở trẻ đẻ non cần chú ý đến vấn đề chăm sóc, theo dõi trẻ đẻ nonTheo dõi về hô hấp và oxy liệu pháp Trẻ sinh non có nguy cơ thiếu hụt surfactant, dễ xuất hiện những cơn ngừng thở. Nếu không được theo dõi và phát hiện kịp thời trẻ có nguy cơ tử ngừa hạ thân nhiệt giữ nhiệt độ cơ thể bé 36 -37 độ C, chân ấm, hồng. Đảm bảo nhiệt độ cho trẻ bầng cách cho trẻ nằm lồng ấp, giường sưởi, hay cho trẻ tiếp xúc da kề da Chăm sóc KangarooChú ý dinh dưỡng cho trẻ Nên khuyến khích cho trẻ bú mẹ, nếu trẻ không bú được cho trẻ ăn bằng ống thông, hoặc đổ thìa...Theo dõi lượng ăn của trẻ để đảm bảo đủ dinh dưỡng và cung cấp yếu tố vi lượng hàng ngày khi trẻ đã dung nạp tốt sữa mẹ..Đảm bảo môi trường vô khuẩn, sạch sẽ, chú ý vệ sinh tay khi tiếp xúc với trẻ, hạn chế. Nên để trẻ da kề da với mẹ sớm để phòng ngừa hạ thân nhiệt Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đã từng tiếp nhận và chữa trị thành công nhiều ca trẻ sinh non đặc biệt có trường hợp sinh cực non trẻ sinh non 24 tuần cân nặng chỉ 600gramĐiều trị và chăm sóc sức khoẻ trẻ sinh non là một trong những kỹ thuật vô cùng phức tạp, nguy cơ rủi ro cao.. Tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, các ca sinh non đều được tổ chức bài bản dưới sự phối hợp của nhiều chuyên khoa khoa sản, khoa gây mê và đặc biệt là khoa sơ sinh, khoa nhi. Việc này giúp hạn chế rủi ro và tăng hiệu quả điều trị đối với những vấn đề về sức khỏe mà trẻ sinh non có thể gặp đó, kỹ thuật điều trị trẻ sinh non tại Vinmec đã thu được những hiệu quả vô cùng tích cực, cứu sống nhiều ca sinh non tưởng chừng như vô vọng Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Video đề xuất Hướng dẫn chiếu đèn điều trị vàng da sơ sinh XEM THÊM Các vấn đề về phổi ở trẻ sinh non Phụ nữ mang thai bị động kinh Phụ nữ mang thai bị động kinh

bệnh xuất huyết não ở trẻ sơ sinh